Câu chuyện Tín Dụng : Việc ở bên nhà hàng xóm (cũ)

Tưởng ở đâu xa ! Chuyện ngay bên hàng xóm cũ. Lấy về từ đây.

Đọc thì biết vậy.

Tín dụng đen nhân danh công lí

(Thứ Năm, 15/09/2011 – 4:36
PM)

 

Tín dụng đen là hình thức kinh doanh tiền lệ phi pháp. Bản chất
sự tồn tại của nó là nương tựa vào một số thế lực làm chỗ chống lưng. Vụ án Năm
Cam và đồng bọn cách đây không lâu đã khiến hệ thống tín dụng đen tróc đi một
mảng, nhưng nó chưa bao giờ biến mất như nhiều người mộng tưởng. Thậm chí, một
trong những “phiên bản” của nó vẫn phát triển thịnh vượng, đó là tín dụng đen
nhân danh công lí. Nói về đẳng cấp “phiên bản” này còn vượt trội so với Trúc
“Mẫu hậu” – vợ Năm Cam.

Tiến sĩ cho vay “nặng
lãi”

Đinh Thị Mai Phương, sinh năm 1961, Tiến sĩ luật
học, có tên trong hồ sơ nhân sự của Viện Khoa học pháp lí thộc Bộ Tư pháp, vốn
không phải là người nổi tiếng về chuyên môn. Nhưng nói đến Phương 9B – Đặng Tất
(phường Quán Thánh, Ba Đình, Hà Nội) thì giới “tiêu tiền siêu lãi suất” ở đất Hà
Thành ai cũng biết. Chỉ có điều, cái sự biết đó, thường gắn với những cay đắng
và sợ hãi…

Quan hệ chỉ dùng một
lần

Nhắc đến cố nhân, nhiều người từng giao du thân
mật với Đinh Thị Mai Phương đều khẳng định: Họ quen biết Phương lần đầu tại Đền
Dâu 64 – Hàng Quạt. Làm ăn, đi lễ, gặp gỡ, trò chuyện và trở nên thân thiết là
chuyện thường, nhưng ít người kịp hiểu rằng, nếu chẳng may thân thiết với Tiến
sĩ Mai Phương, thường dẫn đến tai họa.

Bà Vũ Hồng Hạnh (số nhà 17, ngõ 354, đường Lê Duẩn
– Hà Nội) kể, sau thời gian quen từ hàng Quạt, bà được Phương tỉ tê mời đầu tư
cổ phiếu. Phương nói đang nắm giữ một lô lớn cổ phiếu VPbank, muốn chia sẻ. Mua
là trúng, lỗ em đền! Ngoài sáu chục tuổi, chưa biết cổ phiếu là gì, nghe dỗ
ngọt, bà Hạnh cùng người bạn bỏ 325 triệu đồng mua 2.500 cổ phiếu. Giao tiền,
sang tên mới vỡ lẽ, có hạ giá xuống quá nửa cũng chẳng ai buồn ngó. Hỏi ra, thì
Phương đã trút xong “mớ rủi ro” cho nhiều người. Nhưng vì thuận mua vừa bán biết
kêu ai!

Cái điểm hơn người của Phương là vậy. Thoáng gặp
đã thành thân, nhưng thân rồi cũng dễ trở mặt như kiểu quan hệ chỉ dùng một lần.
Kết thúc chậm hay nhanh, là tùy thuộc vào lợi ích nhiều hay ít mà đối tác có thể
mang lại.

Chút tình cảm chóng vánh với bà Hạnh, lợi ích mang
lại cho Phương vài trăm triệu đồng. Trong khi một nạn nhân khác (giấu tên) ở phố
Trần Xuân Soạn – Hà Nội, người được Phương “chăm sóc” phần vốn làm ăn, phải mất
hàng tỉ đồng gán nhà hạ giá để chuộc nợ. Xét về thời gian, quan hệ này dài hơn,
nên đoạn kết cũng vì thế mà đắng cay gấp bội.

Song phải nếm vị đắng nên mức cạn kiệt niềm tin
với cuộc đời là Nguyễn Liên Thành, nguyên Giám đốc Công ty Hanximex. Thành từng
có thời điểm tiền bằng bao, đất đo bằng héc ta. Vậy mà đến lúc tiêu tán sản
nghiệp, lĩnh án chung thân, những tưởng còn ngôi nhà “mua trả góp” ở số 79 –
Nguyễn Thái Học – Hà Nội (mặt bằng 78m2, diện tích sử dụng hơn 200m2 để làm của
hồi môn cho con, không ngờ điểm bấu víu cuối cùng cũng bị Phương tước đoạt).
Ngôi nhà do Thành và Phương thỏa thuận mua bán từ năm 2001 với giá 8,8 tỉ đồng.
Thành nhận nhà, trả trước 3,2 tỉ đồng và theo yêu cầu của Phương viết thêm một
giấy vay nợ 3 tỉ đồng. Ba năm sau, Thành thanh toán tổng cộng 7,7 tỉ đồng. Phần
còn lại, Thành đưa cho Phương vay 50 triệu đồng làm thủ tục sang tên, đợi bàn
giao sổ đỏ sẽ thanh toán nốt. Nhưng Phương không sang tên sổ đỏ, mà đợi khi
Thành “Yên vị” trong tù, mới mang giấy tờ vẫn “nguyên vẹn” tên mình, khởi kiện
ra tòa để đòi nhà. Trong lúc thân chẳng lo nổi, Thành buộc phải chấp nhận một
thỏa thuận mới. Phương nhận về ngôi nhà “kí gửi” với giá trị tăng hàng chục tỉ
đồng, còn Thành chỉ được hoàn lại 3,2 tỉ đồng (bao gồm trọn gói cả trượt giá
trong khoảng thời gian 10 năm), nhưng thanh toán theo hình thức… “trả
góp”!

Trong phi vụ này, Phương đã toan tính ngoại mục.
Việc chuẩn bị khá công phu gồm: Giao kết không có chứng thực, văn bản vay tiền
được thành lập để hoán đổi mục đích trả nợi và tiểu xảo nhằm trì hoãn việc hoàn
tất thủ tục chuyển nhượng. Bấy nhiêu là quá đủ cho một cuộc lật kèo thành công,
cũng là đủ cho việc thanh lí một mối quan hệ. Tiếc cho Nguyễn Liên Thành, cả tin
xây đắp quan hệ lâu dài, chỉ để nhận ra thói đời bạc đen trong phút chốc!

Chân dung bà tiến sĩ(
bên phải mặc váy màu
đen)

Ván cờ siêu “nặng lãi”

Năm 2005, cũng tại 64 – Hàng Quạt, Nguyễn Trúc
Quỳnh, Giám đốc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Phúc Lộc Thọ (địa chỉ: 14 Hàng Đồng
– Hà Nội) cùng chồng là Lê Trọng Hiếu lần đầu quen biết Đinh Thị Mai Phương.
Trước khi gặp Phương, Quỳnh chuyên kinh doanh đồ nội thất phong thủy. Biết vợ
chồng Quỳnh muốn mở rộng hệ thống bán hàng, nhiều lần Phương gợi ý giúp “gây
dựng sự nghiệp”. Đến tháng 5-2008, Quỳnh mở lời vay vốn, và cũng là lúc kế hoạch
“chăm sóc đối tác” mang tên Nguyễn Trúc Quỳnh được khởi động.

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ thu thập được, đối
chiếu với hồ sơ của Cơ quan điều tra (Công an thành phố Hà Nội), có đủ cơ sở để
khẳng định như sau: Ngày 5-5-2008, Phương giao cho Quỳnh khoản vay đầu tiên. Kể
từ đó đến 21-08-2009, Phương tiếp tục “giải ngân” thêm 11 khoản vay khác bằng
VNĐ và ngoại tệ, tổng cộng các khoản vay lên tới 1,230 triệu USD và 5,225 tỉ
đồng. Lãi suất “áp dụng” đối với từng khoản vay xê dịch từ 3% đến 4%/ tháng bằng
VNĐ và từ 2% đến 3%/tháng bằng USD. Đến tháng 5-2010, Quỳnh đã trả cho Phương
tiền gốc 215.000USD, tiền lãi 2,388 tỉ đồng và 408.000USD.

Tuy nhiên, không chỉ chuyên tâm vào việc cho vay
lấy lãi, trên thực tế Phương chủ yếu dùng thủ đoạn ép buộc vợ chồng Quỳnh phải
viết giấy nhượng bán nhiều tài sản có giá trị gồm: 5 mảnh đất cùng tài sản trên
đất với giá trị tối thiểu 65 tỉ đồng (đã hoàn tất việc sang tên 2 mảnh đất cùng
tài sản trên đất giá trị tối thiểu 50 tỉ đồng), 40.000 cổ phần tại Công ty Cổ
phần Thương mại và Xuất nhập khẩu Tân Trường Thành (Trụ sở 113, Nguyễn Trường
Tộ, phường Trúc Bạch, Ba Đình, Hà Nội) trị giá 4 tỉ đồng. Ngoài ra, ngày
8-6-2009, Phương đã thực hiện thành công việc môi giới cho Quỳnh góp vốn mua 3
căn hộ tại Dự án chung cư số 41, Phố Phương Liệt, Trường Chinh, Hà Nộ và hiện
đang nắm giữ toàn bộ Hợp đồng gốc, Phiếu thu tiền mặt trị giá 87.900USD và số
tiền chênh lệch hơn 1,5 tỉ đồng của giao dịch này. Phương còn 2 lần đến cửa hàng
của Quỳnh lấy hàng không trả tiền, tổng cộng là 222.320.000 đồng. Đây có thể coi
là những hành vi xiết nợ vượt quá giới hạn thông thường, nó thu về “khoản nặng
lãi” cho Phương lớn hơn rất nhiều so với số nợ phải thu hồi.

Phương cho vay bằng USD lãi suất 3%/tháng, có giai
đoạn đã vượt hơn 10 lần so với lãi suất cho vay cùng loại của các ngân hàng
thương mại và tổ chức tín dụng ở cùng thời điểm. Nhưng do các năm 2008-2009,
Ngân hàng Nhà nước không ban hành quy định về lãi suất cho vay USD, nên hành vi
của Phương chưa cấu thành tội cho vay nặng lãi theo Điều 163 Bộ Luật Hình sự.
Song việc cho vay USD số lượng lớn đã vi phạm lệnh Ngoại hối số
28/2005/PL-UBTVQH11 ngày 13-12-2005 của ủy ban Thường vụ Quốc hội. Cụ thể, Điều
22 quy định hạn chế sử dụng ngoại hối, Điều 24 sử dụng ngoại tệ tiền mặt của cá
nhân cho các mục đích hợp pháp, chứ không phải để sử dụng vào mục đích phi pháp,
cho vay lãi cao, thu lợi bất chính.

Không chỉ phạm cho vay nặng lãi, mà hành vi xiết
nợ vượt quá giới hạn của Phương cần được xem xét kĩ. Với nhân thân sạch sẽ: Công
chức Bộ Tư Pháp, Tiến sĩ luật học, Phương lấy đâu ra số ngoại tệ lớn như vậy để
cho vay lãi? Vì sao đằng sau vụ việc, đọng lại trên “bàn cờ tín dụng” của
Phương, lại có sự góp mặt của những giới chức công an, kiểm sát, công chứng và
thấp thoáng đâu đó cả những “anh chị xã hội đen”? Phải chăng, đây mới là điểm
đáng để người ta phải nhìn Phương bằng ánh mắt sợ hãi?

Đánh tráo nạn nhân thành tội
phạm

“Muốn biến người vô tội thành có tội, hãy gán cho
một tội danh, rồi bằng mọi giá chứng minh họ phạm tội. Ngược lại, muốn biến một
người có tội thành vô tội, thì cách hay nhất là kết tội nạn nhân của họ”. Nhiều
người cho là lời càn rỡ. Nhưng nếu để nói về Tiến sĩ Mai Phương, thì đó chỉ đơn
giản là…sự thât.

Bộ mặt người tử tế

Nguyễn Trúc Quỳnh vay tiền mở rộng kinh doanh vào
thời điểm xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Trong vòng 15 tháng, Quỳnh
nhận được 12 lần giải ngân. Mỗi tháng trung bình bổ sung gần 2 tỉ đồng tiền gốc.
Giai đoạn đầu, lãi phát sinh thấp, Quỳnh đảm đương được việc trả nợ. Cuối năm
2008, tổng tiền lãi lên đến hơn 500 triệu đồng/tháng. Trong khi Phương không
ngần ngại thúc đẩy việc giải ngân, Quỳnh gần như rơi vào thảm cảnh phải vay gốc
để trả lãi. Tháng 6-2009, tổng tiền lãi đạt mức “kỉ lục” gần 800 triệu
đồng/tháng, Quỳnh buộc phải đàm phán hạ lãi suất từ 3% xuống 2% đối với 6 khoản
vay bằng USD. Ngày 4-8-2009, Quỳnh trả được 200.000USD, Phương trả lại Quỳnh
Giấy vay tiền viết tay bản gốc đề ngày 10-10-2008. Đến tháng 9-2009, sau lần
giải ngân cuối cùng, mặc dù tiền lãi hằng tháng đã giảm xuống còn hơn 600 triệu
đồng/tháng, nhưng Quỳnh cũng chỉ theo được hết tháng 12-2009 thì tụt
dốc.

Sau nhiều lần đàm phán tạm ngừng trả lãi, để tập
trung vào việc trả nợ gốc (mỗi tháng 10.000-20.000USD), được Phương đồng ý,
trong vòng 5 tháng đầu năm 2010, Quỳnh đã thực hiện 6 lần trả gốc, tổng cộng là
51.000USD. Ngày 30-6-2010, Quỳnh tiếp tục cho nhân viên Hứa Thị Thảo mang 15.000
USD đến nhà Phương trả nợ, nhưng Phương tránh mặt. Đến ngày 3- 7-2010, khi bị Cơ
quan điều tra (Công an Hà Nội) triệu tập, Quỳnh mới biết Phương đã gửi đơn tố
cáo mình có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Ngày 28-8-2010, Quỳnh bị bắt tạm giam lúc đang
mang thai 6 tuần tuổi, ngày 14-9 phải đi cấp cứu tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội do
bào thai chết lưu. Ngày 21-9, chồng Quỳnh là Lê Trọng Hiếu bị buộc kí tên vào
Biên bản thỏa thuận bán cho Phương ngôi nhà gắn với diện tích đất 391m2 ở số 50,
tổ 36, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội chỉ với giá tiền 28 tỉ đồng, thấp
hơn 11,9 tỉ đồng so với Chứng thư thẩm định giá số 746/2010/CENVALUE-CTTĐ ngày
15-9-2010 của Công ty cổ phần thẩm định giá Thế Kỷ. Đổi lại, Phương đồng ý đưa
vụ việc trở về giải quyết dân sự, khi nào Hiếu, Quỳnh làm xong hợp đồng sang tên
nhà và đất, sẽ rút lại đơn kiện để Quỳnh được đình chỉ điều tra. Ngày 1-10-2010,
tại Trạm giam số 1 Hà Nội, chồng Quỳnh kí tên, điểm chỉ vào Hợp đồng mua bán nhà
và chuyển quyền sử dụng đất với mong muốn sớm được đoàn tụ…

Tuy nhiên, một phần do bị Phương bội ước, khiến
Quỳnh vẫn phải thực thi đầy đủ lệnh tạm giam trong thời gian 4 tháng. Ngày
6-1-2011, Cơ quan Cảnh sát điều tra vẫn hoàn thành Bản Kết luật điều tra số
28-KLĐT/PC45-DD, chính thức kết luận: “Đây là vụ án: Lạm dụng tín nghiệm chiếm
đoạt tài sản mang tính chất rất nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn thủ đô Hà Nội, cần xử lí nghiêm trước pháp luật”. Theo
đó, Nguyễn Trúc Quỳnh bị đề nghị truy tố theo Khoản 4 Điều 140 Bộ Luật Hình sự,
với khung hình phạt cao nhất là tù chung thân.

 

Nạn nhân và tội phạm

Hành vi lạm dụng tín nghiệm chiếm đoạt tài sản
theo Điều 140 là chỉ vay mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài
sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ
trốn để chiếm đoạt tài sản đó, hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp
dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Như vậy, đối chiếu với quy định của
luật: Thứ nhất, hành vi của Nguyễn Trúc Quỳnh chỉ cấu thành tội phạm khi bản
thân Quỳnh có mục đích chiếm đoạt tài sản và dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn
để thực hiện mục đích ấy (có thể hoàn thành hoặc chưa hoàn thành). Thứ hai, khi
Quỳnh không có khả năng trả lại tài sản đó đã sử dụng tài sản đó vào mục đích
bất hợp pháp.

Lời khai và các chứng cứ do Quỳnh cung cấp về các
khoản vay nợ, trả nợ, thời gian vay, thời gian trả trùng khớp với nội dung ghi
âm các lần nói chuyện, thỏa thuận về việc giải quyết nợ nần giữa Phương và vợ
chồng Quỳnh, trùng khớp với nội dung lịch trả nợ do Nguyễn Đức Nam, người quản
lí công nợ và cũng là cháu của Phương gửi cho Quỳnh qua thư điện tử vào các ngày
25-7 và 3-11-2009. Điều đó cho thấy, vợ chồng Quỳnh vẫn trả nợ đều đặn, cho đến
tận thời điểm Phương có đơn tố giác với cơ quan công an và chưa từng bao giờ có
ý định đoạt tài sản, vì thế cũng không cần dùng đến thủ đoạn gian dối hoặc bỏ
trốn.

Mặt khác, do tài sản vay mượn chỉ dùng vào việc
đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, với hệ thống bán hàng gồm 6 cửa hàng tồn kho
vẫn có thể kiểm soát được bất cứ lúc nào, nên không thể nói vợ chồng Quỳnh không
có khả năng trả lại tài sản. Còn việc sử dụng nguồn tiền vay vào mục đích bất
hợp pháp thì cho đến nay, chưa ai chứng minh được.

Có chăng, Kết luật điều tra chỉ dựa vào “căn cứ”
duy nhất “khả dĩ có thể buộc tội”, khi cho rằng Quỳnh đã viết giấy bán hai ngôi
nhà tại Bát Tràng cho Phương, sau lại chuyển nhượng cho anh Phạm Chí Thắng ở số
80, Lê Duẩn, Hà Nội và coi đó là hành vi gian dối. Khi xem xét kĩ, thì lỗi lại
thuộc về Đinh Thị Mai Phương. Bởi vì, cả hai văn bản giao kết đều không được
chứng thực. Giao dịch không phát sinh bất cứ nghĩa vụ tài chính nào. Chưa kể
trong file ghi âm còn thể hiện, Phương đã cưỡng ép Quỳnh phải viết giấy bán nhà
thay vì giấy vay tiền, để tiện cho mục đích xiết nợ. Khoản tiền 200.000 USD mà
cơ quan điều tra nhầm tưởng là khoản thanh toán trong giao dịch chuyển nhượng
bất động sản, thực tế chỉ là khoản giải ngân trong quan hệ vay mượn. Đã vay theo
quan hệ, giao dịch nào thì trả theo quan hệ, giao dịch ấy. Không có lẽ cho vay
bằng “tiền” tương đương 7,3 tỉ đồng, nhưng lại nằng nặc đòi trả nợ bằng những
“ngôi nhà” vừa kết thúc giao dịch với giá 9 tỉ đồng? Cách tính này không chỉ sai
về mục đích mà còn chênh lệch quá lớn về giá trị. Do đó, căn cứ định tội duy
nhất được đưa ra bởi cơ quan điều tra, là một sai lầm về mặt logic.

Có thể khẳng định Nguyễn Trúc Quỳnh không hề phạm
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, cũng như tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản. Và điều này đồng nghĩa với việc Đinh Thị Mai Phương sẽ phải đối mặt với
nguy cơ bị truy tố theo Khoản 2 Điều 122 Bộ luật Hình sự, vì đã vu khống người
khác phạm tội rất nghiêm trọng.

Đây là một vụ án rất phức tạp. Giữa nạn nhân và
tội phạm có nơi, có lúc đã bị hoán đổi vị trí cho nhau. Trong khi các cơ quan
bảo vệ pháp luật lại có quan điểm và cách hành xử vô cùng khó hiểu. Vụ án rối
rắm về quan hệ dân sự, nếu xuất hiện yếu tố hình sự, thì phải xác định đúng đối
tượng, truy tố hành vi chưa đủ hoặc không cấu thành tội phạm, sẽ rất nguy hiểm.
Bởi vì lúc đó, công cụ dùng để bảo vệ chế độ và nhân dân sẽ có thể vô tình hoặc
cố ý bị lợi dụng, để “phục vụ ” cho chính sự tồn tại và phát triển của loại tội
phạm mới.

Cái ác nhân danh công

Trong vụ án Năm Cam đồng bọn, Trúc “Mẫu hậu” đã có
10 năm dựa vào uy thế của chồng là một ông Trùm để mở rộng đường dây tín dụng
đen. Đó được coi là cái ác nhân danh cái ác hơn để tồn tại. Còn trong vụ án
Nguyễn Trúc Quỳnh, làm cách nào Đinh Thị Mai Phương có thể đẩy nạn nhân của mình
vào tù, làm cách nào chị ta có thể xiết nợ những tài sản có giá trị hàng chục tỉ
đồng? Phải chăng, vị Tiến sĩ này đã nhân danh một thế lực như chị ta tuyên bố
trong đoạn ghi âm số 5: “Pháp luật ở trong tay tao!….”.

Bản chất tội phạm

Với ý thức “pháp luật ở trong tay” nên Đinh Thị
Mai Phương rất tự tin thực hiện các hành vi chiếm đoạt tài sản. Khi đã vắt kiệt
khả năng trả lãi của Nguyễn Trúc Quỳnh, Phương bắt đầu thực hiện công cuộc xiết
nợ. Đầu tiên là ngôi nhà số 1/97, đường Văn Cao – Ba Đình – Hà Nội . Đúng vào
hôm vợ chồng Quỳnh phải lên Bắc Giang giải quyết chuyển nhập hàng (2-12- 2009),
Phương đã cho Vũ Hồng Doanh (lái xe), Nguyễn Đức Nam (cháu Phương) và một người
tên Minh được giới thiệu là Thư kí công chứng viên (thuộc phòng Công chứng số 6
thành phố Hà Nội) lên Bắc Giăng bắt vợ chồng Quỳnh phải kí vào Hợp đồng mua bán
nhà và chuyển quyền sử dụng đất đã lập sẵn. Vợ chồng Quỳnh từ chối không kí,
nhưng đến 24 giờ cùng ngày, người của Phương đuổi theo từ Bắc Giang về đến chân
cầu Chương Dương, chặn đường ép phải kí tên, điểm chỉ bằng được. Điểm đáng lưu ý
là công chứng viên của Phòng Công chứng số 6 Bùi Ngọc Long không có mặt tại thời
điểm “kí kết” hợp đồng, Long vẫn kí tên, đóng dấu công chứng trong hợp đồng, lời
chứng đề ngày 2-12-2009. Với bản Hợp đồng vi phạm pháp luật đó, Phương đã thực
hiện việc sang tên, chiếm đoạt tài sản với giá trị tối thiểu 5 tỉ
đồng.

Sau vụ trên, Phương còn dùng thủ đoạn như thúc nợ,
sử dụng những tên tuổi Dũng “bồ” để đe dọa, uy hiếp vợ chồng Quỳnh phải bán hạ
giá 3 căn nhà ở Bát Tràng – Gia Lâm – Hà Nội với giá trị chênh lệch gần chục tỉ
đồng so với giá trị thị trường, nhưng chưa thành. Đến nay, ngoài ngôi nhà ở Văn
Cao, Phương mới hoàn thành việc chiếm đoạt của Quỳnh những tài sản gồm: 40.000
cổ phần tại Công ty Tân Trường Thành, chênh lệch giá trị so với nợ gốc là 3 tỉ
đồng; nhà số 50, tổ 36, phường Dịch Vọng – Cầu Giấy – Hà Nội, chênh lệch giá trị
so với khoản tiền 11,9 tỉ đồng. Đây là những trường hợp xiết nợ có dấu hiệu phạm
tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, như nhiều lần lợi dụng Nguyễn Trúc Quỳnh đang
bị tạm giam, đến lấy hàng không trả tiền tại các cửa hàng của Quỳnh với giá trị
hơn 220 triệu đồng…

Cán cân công lí nghiêng về
đâu?

Phương có những dấu hiệu phạm tội rõ ràng như vậy,
nhưng khi Quỳnh làm đơn tố cáo (ngày 15-7-2010) gửi các cơ quan chức năng với
đầy đủ bằng chứng, thì đều không thấy hồi âm. Trong khi, đơn tố cáo với nội dung
bịa đặt, vu khống của Phương (gửi này 28-6-2010) chỉ sau năm hôm Quỳnh liên tục
bị triệu tập đến cơ quan điều tra, rồi bị tạm giam, bị kết tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản. Chồng Quỳnh bị ép viết đơn thư bãi nại những nội dung,
chứng cứ đã gửi tố cáo tội lỗi của Phương trước đó. Phương thậm chí còn viết mẫu
lời xin lỗi trong một văn bản ghi ngày 20-9- 2010, bắt Lê Trọng Hiếu, chồng của
Quỳnh phải chép lại. Chính nhờ lá đơn bãi nại này, cơ quan điều tra có “cớ” để
bỏ qua việc xem xét trách nhiệm hình sự của Phương. Có thể nói, kế “phản khách
vi chủ” được Phương sử dụng hiệu quả.

Sẽ chẳng bao giờ Phương có thể được lợi thế như
vậy, nếu không nhờ bàn tay “bao bọc” của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành
phố Hà Nội. Họ đã “dũng cảm” hoán đổi vị trí của nạn nhân thành tội phạm. Khi
đặt cả hai lên bàn cân, họ đã chọn nạn nhân làm đối tượng tấn công quyết liệt,
bất chấp việc vi phạm thủ tục tố tụng hình sự và xâm phạm quyền tự do, dân chủ
của công dân.

Điều đó được minh chứng khi Quỳnh bị bắt tạm giam.
Cơ quan điều tra, viện Kiểm Sát biết rõ Quỳnh đang mang thai nhưng lệnh tạm giam
vẫn giữ nguyên hiệu lực. Trong các ngày 30-8 và 7-9-2010, gia đình Quỳnh gửi đơn
xin bảo lãnh, trong đơn có nêu rõ lí do, song cơ hội hủy bỏ tạm giam bị từ chối.
Cho đến khi phát hiện Quỳnh có nguy cơ bị sảy thai (ngày 9-9-2010), Trại giam
điện báo, cơ quan điều tra vẫn kiên quyết chỉ đạo, ý kiến lưu tại hồ sơ y tế như
sau: “Bị bệnh thì Trại cứ cho ra viện khám theo quy định. Chú ý: Đây là đối
tượng phạm tội nghiêm trọng cần quản lí giám sát chặt chẽ.”….

Thể hiện ý chí không khoan nhượng như vậy, nhưng
kết quả điều tra lại rất sơ sài. Nội dung chính của Bản Kết luận điều tra chỉ có
3 trang, trong đó mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không được làm rõ. Các khoản vay mượn
không có ngày tháng đi kèm. Tiền VNĐ và ngoại tệ không hiểu sao đều bị quy đổi
ra USD. Đi kèm lãi suất, số tiền trả gốc, trả lãi cũng không có thời gian bắt
đầu, chỉ có thời gian kết thúc. Nhiều chứng cứ quan trọng có trong hồ sơ không
được sử dụng. Nhiều thông tin cần thiết có thể xác minh theo thẩm quyền, không
được xác minh. Căn cứ định tội duy nhất vừa gượng ép, vừa sai logic. Kết luận
điều tra đã truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, trong khi kẻ có tội
lại không bị truy cứu. Ngay cả khi Viện Kiểm sát nhân dân TP Hà Nội phát ra
nhiều mâu thuẫn, sai sót, đã hai lần trả hồ sơ điều tra lại, nhưng cơ quan điều
tra vẫn quyết tâm “đâm lao” và “theo lao”.

Cơ quan điều tra còn áp dụng nhiều biện pháp “tích
cực” để can thiệp vào việc giải quyết vấn đề dân sự ngay trong giai đoạn điều
tra, như chấp thuận cho điều tra viên, công chứng viên vào tận trại giam làm thủ
tục công chứng, hay phong tỏa những tài sản không liên quan đến vụ án (3 căn nhà
ở Bát Tràng – Gia Lâm – Hà Nội) để giúp Đinh Thị Mai Phương thực hiện việc xiết
nợ. Đến nay, dù Phương đạt được giá trị lợi nhuận lớn hơn gấp đôi so với số tiền
vốn bỏ ra ban đầu và ở dòng “lưu bút” của Kết luận điều tra cũng đã khẳng định:
“về dân sự chị Phương không có đề nghị gì thêm”, nhưng những biện pháp phong tỏa
nói trên vẫn chưa được gỡ bỏ.

Đứng trước mâu thuẫn lón như vậy, nhưng người làm
công tác điều tra không dám đối diện với nó thì quá là điều đang
tiếc!

Và đáng tiếc hơn nữa, suốt trong 10 năm qua, khi
cơn sốt tín dụng đen hoành hành mọi nơi, mọi lúc ở khắp các hang cùng ngõ hẻm
của thủ đô, Công an Hà Nội chỉ phá được duy nhất một vụ cho vay nặng lãi. Vậy mà
đến lúc có cơ hội phá một vụ án còn nghiêm trọng hơn cả cho vay nặng lãi, họ lại
làm điều ngược lại vì sao?.

Điều tra của: Người Dân-Lê
Thanh