Category Archives: Danh nhân nước Việt

Đọc lại cụ Nguyễn Công Trứ (ở Tiền Hải) trước khi đi Tiên Lãng

Viết dần dần từ 31/1/2012

tl.jpg

1. Huyện Tiên Lãng của anh Vươn nằm giữa hai dòng sông lớn: sông Văn Úc và sông Thái Bình. Có thể hình dung đơn giản về vùng đất xứ Đông ấy như sau, các con sông là những dấu gạch đứt — :

huyện Thái Thụy của Thái Bình (sông Hóa) huyện Vĩnh Bảo của Hải Phòng (sông Thái Bình)  huyện Tiên Lãng (sông Văn Úc) huyện Kiến Thụy

Tên là sông Thái Bình nhưng không nằm trên địa phận tỉnh Thái Bình ngày nay, mà lại nằm kẹp giữa hai huyện Vĩnh Bảo và Tiên Lãng của tỉnh Hải Phòng.

Trong vòng 2 năm trở lại đây, chúng tôi tổ chức nhiều chuyến đi dọc trên các tuyến sông Hóa, sông Thái Bình, và Văn Úc. Vừa rồi, liên quan đến các dòng sông ấy, chúng tôi mới đi du lãng ở vùng ngã ba Bạch Hạc, ở đây: Ngã ba Hạc của những ngày cuối năm 2011.

Sắp tới, trước hết sẽ đi đến vùng sông Văn Úc, với Núi Đối và con sông con mang tên Đa Độ (một nhánh của sông Văn Úc). Sau rồi sẽ trở lại với khu vực sông Thái Bình.

dc.jpg

"Chuyện sấm kí được ghi cả trên bia đá đây ông này !"

2. Vào dịp xuân năm 1962, cụ Hồ Chí Minh đã về thăm huyện Tiền Hải, một trong hai nơi mà vào thời Nguyễn, quan Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ đã có công khai phá bằng phương thức quai đê lấn biển.

Cụ Hồ đã tới xã Nam Cường – xã lấn biển. Qua ảnh tư liệu (ở đây), thấy cụ mặc quần áo có vẻ hơi xộc xệch (cái dáng của anh Vươn trên báo năm 2008 cũng có vẻ hao hao), đầu không đội mũ cát, và chân không đi tất, hết sức giản dị.

Sau đúng 50 năm, vào mùa xuân năm 2012, cụ Trương Tấn Sang nhân dịp về Ninh Bình cày ruộng theo gương vua Lê, cũng đã ghé thăm huyện Kim Sơn – cùng với Tiền Hải là một trong hai nơi cụ Nguyễn Công Trứ khai phá – và dâng hương tại đền thờ Doanh điền sứ. Chẳng hạn, tin VOV đưa như sau: "Nhân dịp này, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến dâng hương tại đền thờ Nguyễn Công Trứ – người đã chiêu dân khai hoang lấn biển lập ra huyện Kim Sơn (núi vàng) của tỉnh Ninh Bình và huyện Tiền Hải (biển bạc) của tỉnh Thái Bình.

3.

(Đang viết)

Những entry liên quan đã đi trên blog này:

– Tổng quan vụ anh Vươn (Tiên Lãng 2012)

 

Đọc chậm tư liệu gốc vụ anh Vươn – 5 (bên tám lạng người nửa cân)

Đọc châm tư liệu gốc vụ anh Vươn – 4 (hình như anh Vươn cũng tự quên)

Đọc châm tư liệu gốc vụ anh Vươn ở Tiên Lãng – 3 (tiếng nói anh Vươn)

Đọc chậm tư liệu gốc vụ anh Vươn ở Tiên Lãng – 2 (báo cáo của hội NTTS huyện)

Đọc chậm tư liệu gốc vụ anh Vươn ở Tiên Lãng – 1 (báo cáo của huyện)

Nguyễn Công Trứ : Sống làm tướng, chết làm thần (khu tưởng niệm ở Thái Bình)

Lời dẫn: Tin này để lui lại hơn 2 tháng, bây giờ mới post lên. Lấy về từ báo Thái Bình. Tin về khu tưởng niệm cụ Nguyễn Công Trứ mới khánh thành có thấy xuất hiện ngay chiều tối hôm đó trên VTV, hình như VTV2 hay VTV3 (không nhớ rõ), nhưng chỉ có độ 10 -15 giây.

Người ta đã hơi nhầm khi phải đầu tư cho 10-15 giây (không phải phút) như vậy trên VTV.

Dụng ý của người thực sự xây dựng nên khu tưởng niệm là ngày 14-10. Báo chí cả trung ương và địa phương đều không hề biết vì sao lại là ngày đó, chỉ đưa tin là ngày 15-10.

Mình phải ghi lại đây để khỏi quên. Bia đá làm chứng.

Khánh
thành Khu lưu niệm Doanh điền sứ
Nguyễn Công Trứ 
 
Cập nhật: Thứ
ba, 18/10/2011 | 9:30:39 AM
 
Sáng
ngày 15/10, huyện Tiền Hải tổ chức lễ kỷ niệm 183 năm thành lập (1828-2011), ra
mắt cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện (1926-2010) và cắt băng khánh thành Khu lưu niệm
Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ tại xã Tây Sơn.

Đồng chí Uông Chu Lưu, Phó Chủ tịch Quốc hội cùng
các đồng chí lãnh đạo Tỉnh uỷ, UBND tỉnh cắt băng khánh thành Khu lưu
niệm.

Dự buổi lễ có
các đồng chí: Trung tướng Trần Đại Quang, ủy viên Bộ Chính Trị, Bộ trưởng Bộ
Công an; Uông Chu Lưu, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội; Trần Cẩm
Tú, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; Phạm Văn Ca, Ủy viên BTV Tỉnh ủy,
Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh. Tới dự còn có các đồng chí nguyên là lãnh
đạo tỉnh, các đồng chí trong BTV Tỉnh ủy, lãnh đạo các sở, ban, ngành, đại
diện hai huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh), Kim Sơn (Ninh Bình) cùng đông đảo nhân dân
trong và ngoài huyện.

Cách đây 183
năm, trên bãi biển Tiền Châu hoang vu, đầy lau sậy, sú vẹt, bằng tài năng và
nghị lực sáng tạo, Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ đã chiêu mộ nông dân ở nhiều
nơi khai hoang, vỡ hóa lập nên ấp, lý, trại, giáp. Huyện Tiền Hải dần được hình
thành và chính thức ra đời vào mùa thu năm Minh Mạng thứ 9 (1828). Trải qua 183
năm xây dựng và trưởng thành, huyện Tiền Hải ngày nay có diện tích tự nhiên trên
24.600 ha, dân số trên 22 vạn người, có hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển.

Phát huy tiềm
năng, thế mạnh nội sinh cùng cả nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì
mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là kết quả của
tinh thần lao động cần cù, thông minh, sáng tạo của các thế hệ người Tiền Hải
trong công cuộc đấu tranh với thiên nhiên để cải tạo và phát triển.

Nhân kỷ niệm
183 năm ngày thành lập, huyện Tiền Hải đã cho ra mắt Lịch sử Đảng bộ huyện giai
đoạn 1926- 2010 và cắt băng khánh thành Khu lưu niệm Doanh điền sứ Nguyễn Công
Trứ tại xã Tây Sơn. Khu di tích lịch sử Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ được xây
dựng theo quy hoạch đã được phê duyệt gồm hai dự án: khu tưởng niệm và khu đình
thờ, công trình do Tập đoàn GELEXIMCO làm chủ đầu tư với kinh phí trên 20 tỷ
đồng. Việc khánh thành Khu lưu niệm và ra mắt cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện thể
hiện truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, qua đó giáo
dục truyền thống cách mạng của quê hương Tiền Hải anh hùng cho các thế
hệ.

Phát biểu tại
buổi lễ, đồng chí Phạm Văn Ca, Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh ghi nhận và
biểu dương thành tích mà Đảng bộ và nhân dân huyện Tiền Hải đã đạt được trong
những năm qua. Đồng chí mong rằng, trong thời gian tới, Tiền Hải tiếp tục phát
huy những truyền thống anh hùng, tiềm năng, lợi thế và các nguồn lực để đưa Tiền
Hải phát triển bền vững, góp phần cùng toàn tỉnh thực hiện thắng lợi Nghị quyết
của Tỉnh Đảng bộ ngay từ những năm đầu.

Tin,
ảnh:
Đức Lợi

Những entry liên quan đã đi trên blog này:

Xem câu đối cụ Vũ Khiêu viết cho đền thờ cụ Nguyễn Công Trứ

Đền thờ Nguyễn Công Trứ ở Hà Tĩnh được trùng tu theo kiểu lạ (bài cũ năm 2008)

Dọc theo đường 10, đi thăm nhà cũ và công trường của cụ Nguyễn Công Trứ

Đoàn Triển (bài của Phanxipăng, 2011)

Bài lấy về từ đây. Tạm thời, chưa có lời dẫn lời bình. Bản copy vào đây có lẽ sẽ xộc xệch một chút, đành vậy.

Nào
ai chín
suối…
Kìa ai chín suối xương không nát;
Có lẽ ngàn thu tiếng
vẫn còn.

Câu đối nổi tiếng ấy bấy lâu nay được đông người
thuộc và bảo rằng của Nguyễn Khuyến.

Kỳ thực, tác giả là
Đoàn Triển. Nguyên tác có khác mấy
từ.
Đoàn
Triển (1854 –
1919)
Bấy lâu nay, quá nhiều sách báo ghi rằng
đôi câu đối hào sảng mà thâm trầm ấy do Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (1835 –
1909) phúng điếu Tú Xương / Trần Tế Xương (1870 – 1907). Xin trưng dăm thư tịch:
Thời và thơ Tú Xương của Nguyễn Tuân đăng báo Văn Nghệ tháng 5-1961 rồi
in trong nhiều sách như Tuyển tập Nguyễn Tuân tập II (NXB Văn Học, Hà
Nội, 1982); Chơi chữ của Lãng Nhân (Nam Chi Tùng Thư ấn hành tại Sài Gòn
năm 1961 rồi tái bản lắm lần); Đọc thơ Tú Xương của Xuân Diệu viết xong
năm 1969 sau đó in trong hàng loạt cuốn như Thơ Trần Tế Xương (Ty Văn Hoá
Nam Hà xuất bản, 1969) và Các nhà thơ cổ điển Việt Nam tập II (NXB Văn
Học, Hà Nội, 1982); Nguyễn Khuyến – Tú Xương của Đỗ Đức Dục viết xong năm
1984 để năm sau đọc tại Hội thảo khoa học nhân kỷ niệm 150 năm ngày sinh Nguyễn
Khuyến đoạn in trong các sách như Nguyễn Khuyến (NXB Văn Nghệ TP.HCM,
1997), v.v.

Tuy nhiên, đã xuất hiện ý kiến
phản biện về tác giả đôi câu đối tuyệt vời ấy. Mở đầu chuyên luận Tú Xương,
nhà thơ lớn của dân tộc
, giáo sư Nguyễn Đình Chú nhấn mạnh: "Gần đây đã có
người cải chính rằng đó là hai câu đối ở hai cột lăng của Đoàn Triển tại làng
Hữu Thanh Oai, Hà Sơn Bình, nhưng từ lâu nhiều người vẫn tin là của Nguyễn
Khuyến viếng Tú Xương". Chuyên luận nọ từng in trong các sách Thơ văn Trần Tế
Xương
(NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1984), Tú Xương – tác phẩm, giai thoại
(Hội Văn nghệ Hà Nam Ninh, 1987), Thơ Trần Tế Xương – tác phẩm và dư luận
(NXB Văn Học, Hà Nội, 2002).

Hiện trạng
bia mộ Tú Xương

Thế mà năm 1991, tu bổ ngôi mộ thi
sĩ tài hoa Tú Xương bên bờ hồ Vị Xuyên, giữa TP. Nam Định, Sở Văn hoá &
Thông tin tỉnh Nam Định thiếu thận trọng vì dựng bia đá xanh mang những chữ chưa
chính xác. Mặt này khắc 2 dòng trích từ bài thơ Sông Lấp của Tú Xương
bằng chữ Nôm cùng chữ quốc ngữ:

Vẳng nghe tiếng ếch
bên tai

Giật
mình lại tưởng tiếng ai gọi đò

Ồ, còn tưởng chứ chẳng phải lại
tưởng
. Bởi thế, nhà thơ Vũ Quần Phương viết bài Hãy gìn giữ những gì liên
quan đến nhà thơ Tú Xương
đăng báo Tiền Phong thứ bảy 16-7-2005 http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=15905&ChannelID=7
có đoạn: "Tiếng gọi đò trong bài thơ Sông Lấp của Tú Xương làm xao xuyến
mọi lòng dân Việt bởi cái âm hưởng như gọi hồn đất nước. Theo tôi, đấy là bài
thơ hay nhất của Tú Xương, và cũng là bài thơ của một giai đoạn lịch sử, của hồn
vía Việt Nam sâu nặng. Hai câu thơ trích từ bài này đã được các nhà quản lý văn
hoá khắc trên bia mộ Tú Xương, nơi vườn hoa Vị Xuyên. (…) Chỉ tiếc trong hai
câu thơ trích, khắc quốc ngữ trên bia, có một chữ sai, nên sửa".

Thực ra, bia đá nọ sai cả quốc ngữ
lẫn chữ Nôm, đồng thời sai không chỉ một, mà nhiều chữ. Mặt kia
khắc:

Kìa ai chín suối xương
không nát


lẽ ngàn thu tiếng vẫn còn

Nguyễn
Khuyến

Đôi câu đối đó không phải của Nguyễn Khuyến, mà của Đoàn Triển, và
nguyên tác có khác mấy từ.

Đoàn Triển
– sơ lược thân thế và sự nghiệp

Đoàn Triển 段展 tự Doãn Thành,
hiệu Mai Viên, chào đời ngày 19 tháng tư Giáp Dần (1854) tại làng Hữu Thanh
Oai.

Năm Ất Hợi 1875, Đoàn Triển làm ấm
sinh tỉnh Hà Đông. Đỗ cử nhân Ân khoa Bính Tuất 1866, niên hiệu Đồng Khánh thứ
nhất. Năm Kỷ Sửu 1889, được bổ Tư vụ rồi Chủ sự, Viên ngoại Nha Kinh lược Bắc
Kỳ. Sau đó, Đoàn Triển lần lượt đảm các chức Tri phủ Bình Giang, Kinh Môn, Nam
Sách, Ninh Giang; Án sát Hà Nội; Tuần phủ Ninh Bình, Hà Nội, Hà Nam; Tuần phủ
sung Tuyên phủ sứ Bắc Giang.

Là học quan tích cực tham gia vào
sự nghiệp giáo dục, Đoàn Triển xây dựng Giang Kiều Học Xá năm Bính Ngọ 1906.
Cùng năm đó, ông gửi Thống sứ Bắc Kỳ tờ trình mang nội dung: đề nghị lập Toà Hội
đồng Học vụ nhằm biên soạn 18 quyển sách giáo khoa từ vỡ lòng đến trung học. Tờ
trình ấy được Emmanuel Poisson khen ngợi qua công trình nghiên cứu Mandarins
et subalternes au nord du Vietnam – une bureaucratie à l'preuve (1820 – 1918) /
Quan và lại ở miền Bắc Việt Nam – một bộ máy hành chính trước thử thách (1820 –
1918)
(Bản dịch của Đào Hùng & Nguyễn Văn Sự – NXB Đà Nẵng,
2006).

Năm Giáp Dần 1914, Đoàn Triển về
hưu, hàm Thái tử Thiếu bảo, Hiệp tá Đại học sĩ. Ngày 12 tháng 7 Kỷ Mùi
(15-8-1919), Đoàn Triển mệnh chung, được an táng tại sinh phần do chính ông
thiết kế và chỉ đạo xây dựng ở làng Hữu Thanh Oai từ niên điểm hưu
trí.

Trước tác của Đoàn Triển hiện còn:
An Nam phong tục sách / Tiểu học bản quốc phong tục sách (Bản dịch của
Nguyễn Tô Lan – NXB Hà Nội, 2008), Mai Viên thi tập, Mai Viên chủ nhân quy
điền lục, Đoàn tuần phủ công độc, Nhi tôn tất độc
. Ngoài ra, Đoàn Triển còn
có thơ đề ở quán Trấn Vũ, văn bia nhà học xã Hữu Hoà và chùa Quang Ân, câu đối ở
đàn tổ họ Đoàn và sinh phần của bản thân.

Xác định
tác giả cùng nguyên tác đôi câu đối

Ngày 4-5-2008, giáo sư – nhà giáo
nhân dân Nguyễn Đình Chú nói với tôi:

– Những năm 1955 – 1956, mình là
sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội, cùng lớp với Đoàn Mai Thi. Thi là con của Đoàn
Ban, cháu nội của Đoàn Duy Bình, chắt của Đoàn Triển. Mình thân thiết với gia
đình đó lắm, nên biết đôi câu đối đang đề cập của cụ Đoàn Triển, chứ mình chưa
tận mắt trông thấy trên lăng mộ. Tiếc rằng Thi đã lìa trần. Hôm nay, chúng ta
ghé thăm Đoàn Thịnh, em ruột của Đoàn Mai Thi, nhé.

Nhà giáo Đoàn Thịnh, cựu chuyên
viên sử học của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, nay đã nghỉ hưu tại nhà riêng ở
phố Lò Đúc, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Sau khi được gia chủ cho xem một số tư
liệu liên quan Đoàn Triển, tôi cùng thầy Chú được ông Thịnh đưa đến làng Hữu
Thanh Oai để viếng mộ Mai Viên tướng công.

Làng Hữu Thanh Oai, còn gọi Hữu
Châu, tên Nôm là Tó Hữu, nằm bên bờ phải dòng sông Nhuệ. Đối ngạn là làng Tả
Thanh Oai tức Tó Tả. Xưa, Hữu Thanh Oai là một xã thuộc tổng Thanh Oai, huyện
Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam Thượng. Năm 1948, nhập với các làng Hữu
Lê, Hữu Chung, Hữu Từ, thành xã Hữu Hoà, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông. Năm
1961, là thôn Hữu Thanh Oai, xã Hữu Hoà, huyện Thanh Trì, TP. Hà
Nội.

Ngang chùa Linh Xá, rẽ vào xóm nhỏ
một quãng thì gặp mộ Đoàn Triển được tạo tác khá công phu giữa khoảnh đất rộng
1.088m2. Để thắp nén nhang trước huyệt, chúng tôi bước qua cổng bằng
đá xanh. Hai cột đá làm trụ cổng được khắc lõm 3 cặp câu đối, gồm 2 cặp Hán và 1
cặp Nôm.

Cặp câu đối chữ Hán thứ
nhất:

問心自可無疑塚


論何須俟蓋棺

Phiên âm:

Vấn tâm tự khả vô nghi
trủng,

Định
luận hà tu sĩ cái quan.

Tạm dịch:

Hỏi lòng không thiết
vun mồ giả,

Xét việc khỏi chờ đậy ván thiên.

Tôi sực liên tưởng thất thập nhị nghi
trủng
七十二疑冢 tức 72 mả giả tại huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam, mà Tào
Tháo (155 – 220) tạo lập trước khi chết bởi sợ sau này có kẻ đào quật, khiến
Nguyễn Du (1765 – 1820) bật lên những vần trong Bắc hành tạp lục đầy
cương trực:

枉用一人無限智

空留萬古許多疑
臭名滿槨藏何用
賊骨千年罵不知

Phiên âm:

Uổng dụng nhất nhân vô
hạn trí,

Không lưu vạn cổ hứa đa nghi.
Xú danh mãn quách tàng hà
dụng?

Tặc
cốt thiên niên mạ bất tri.

Tạm chuyển ngữ:

Uổng phí một người mưu
sâu rộng,

Lưu hoài ngàn kiếp mối đa nghi.
Đầy hòm tiếng xấu, chôn gì
nổi?

Xương
giặc đâu nghe giọng bấc chì.

Cặp câu đối chữ Hán thứ nhì:

生則同室 死則同穴

山不在高水不在深

Phiên âm:

Sinh tắc đồng thất, tử
tắc đồng huyệt,

Sơn bất tại cao, thuỷ bất tại thâm.

Tạm dịch:

Sống cùng một liếp
nhà, chết cùng một huyệt mộ,

Núi chẳng cốt đỉnh cao, nước chẳng cốt vực
sâu.

Vế
sau gợi nhớ đôi dòng mở đầu
陋室銘
/ Lậu thất minh / Bài minh về căn nhà quê
mùa
của Lưu Vũ Tích (772 – 842):

山不在高有仙則名

水不在深有龍則靈

Phiên âm:

Sơn bất tại cao, hữu
tiên tắc danh,

Thuỷ bất tại thâm, hữu long tắc
linh.

Nghĩa :

Núi dẫu chẳng cao, có
tiên nên danh tiếng,

Nước dẫu chẳng sâu, có rồng nên linh
hiển.

Cặp câu đối chữ Nôm rất đáng quan tâm:

Nào ai chín suối
xương không nát,

Có nhẽ trăm năm miệng hãy
còn.

Giáo sư Nguyễn Đình Chú gật gù:

– Bây giờ, mình mới biết nguyên
tác. Đối với xương, rõ ràng miệng chỉnh hơn, hay hơn tiếng.
Thành ngữ nghìn năm bia miệng còn khiến cho mọi người hiểu thấm thía hai
câu đối của người quá cố.

Nhà giáo Đoàn Thịnh nhấc cặp kính
trắng:

– Nhà báo Phanxipăng thấy thế
nào?

Tôi cười:

– Văn bản gốc bằng chất liệu bền
vững thế này thì… hết ý! Vậy mà suốt bao lâu, thiên hạ vẫn cứ bị nhầm lẫn. Lạ
nhỉ?

Đã
đăng:

Thế
Giới Mới
862 (30-11-2009)

Kiến Thức Ngày Nay 751
(20-6-2011)
Phanxipăng sờ bia mộ Tú Xương trong công viên Vị Xuyên, Nam
Định.

Ảnh: Trần Nam
Xuyên
Giáo sư –
nhà giáo nhân dân Nguyễn Đình Chú và Phanxipăng viếng mộ Đoàn Triển bên bờ sông
Nhuệ, Hà Nội.

Ảnh: Đoàn Thịnh