Bấy lâu nay, quá nhiều sách báo ghi rằng
đôi câu đối hào sảng mà thâm trầm ấy do Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (1835 –
1909) phúng điếu Tú Xương / Trần Tế Xương (1870 – 1907). Xin trưng dăm thư tịch:
Thời và thơ Tú Xương của Nguyễn Tuân đăng báo Văn Nghệ tháng 5-1961 rồi
in trong nhiều sách như Tuyển tập Nguyễn Tuân tập II (NXB Văn Học, Hà
Nội, 1982); Chơi chữ của Lãng Nhân (Nam Chi Tùng Thư ấn hành tại Sài Gòn
năm 1961 rồi tái bản lắm lần); Đọc thơ Tú Xương của Xuân Diệu viết xong
năm 1969 sau đó in trong hàng loạt cuốn như Thơ Trần Tế Xương (Ty Văn Hoá
Nam Hà xuất bản, 1969) và Các nhà thơ cổ điển Việt Nam tập II (NXB Văn
Học, Hà Nội, 1982); Nguyễn Khuyến – Tú Xương của Đỗ Đức Dục viết xong năm
1984 để năm sau đọc tại Hội thảo khoa học nhân kỷ niệm 150 năm ngày sinh Nguyễn
Khuyến đoạn in trong các sách như Nguyễn Khuyến (NXB Văn Nghệ TP.HCM,
1997), v.v.
Tuy nhiên, đã xuất hiện ý kiến
phản biện về tác giả đôi câu đối tuyệt vời ấy. Mở đầu chuyên luận Tú Xương,
nhà thơ lớn của dân tộc, giáo sư Nguyễn Đình Chú nhấn mạnh: "Gần đây đã có
người cải chính rằng đó là hai câu đối ở hai cột lăng của Đoàn Triển tại làng
Hữu Thanh Oai, Hà Sơn Bình, nhưng từ lâu nhiều người vẫn tin là của Nguyễn
Khuyến viếng Tú Xương". Chuyên luận nọ từng in trong các sách Thơ văn Trần Tế
Xương (NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1984), Tú Xương – tác phẩm, giai thoại
(Hội Văn nghệ Hà Nam Ninh, 1987), Thơ Trần Tế Xương – tác phẩm và dư luận
(NXB Văn Học, Hà Nội, 2002).
Hiện trạng
bia mộ Tú Xương
Thế mà năm 1991, tu bổ ngôi mộ thi
sĩ tài hoa Tú Xương bên bờ hồ Vị Xuyên, giữa TP. Nam Định, Sở Văn hoá &
Thông tin tỉnh Nam Định thiếu thận trọng vì dựng bia đá xanh mang những chữ chưa
chính xác. Mặt này khắc 2 dòng trích từ bài thơ Sông Lấp của Tú Xương
bằng chữ Nôm cùng chữ quốc ngữ:
Vẳng nghe tiếng ếch
bên tai Giật
mình lại tưởng tiếng ai gọi đò
Ồ, còn tưởng chứ chẳng phải lại
tưởng. Bởi thế, nhà thơ Vũ Quần Phương viết bài Hãy gìn giữ những gì liên
quan đến nhà thơ Tú Xương đăng báo Tiền Phong thứ bảy 16-7-2005 http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=15905&ChannelID=7
có đoạn: "Tiếng gọi đò trong bài thơ Sông Lấp của Tú Xương làm xao xuyến
mọi lòng dân Việt bởi cái âm hưởng như gọi hồn đất nước. Theo tôi, đấy là bài
thơ hay nhất của Tú Xương, và cũng là bài thơ của một giai đoạn lịch sử, của hồn
vía Việt Nam sâu nặng. Hai câu thơ trích từ bài này đã được các nhà quản lý văn
hoá khắc trên bia mộ Tú Xương, nơi vườn hoa Vị Xuyên. (…) Chỉ tiếc trong hai
câu thơ trích, khắc quốc ngữ trên bia, có một chữ sai, nên sửa".
Thực ra, bia đá nọ sai cả quốc ngữ
lẫn chữ Nôm, đồng thời sai không chỉ một, mà nhiều chữ. Mặt kia
khắc:
Kìa ai chín suối xương
không nát Có
lẽ ngàn thu tiếng vẫn còn Nguyễn
Khuyến
Đôi câu đối đó không phải của Nguyễn Khuyến, mà của Đoàn Triển, và
nguyên tác có khác mấy từ.
Đoàn Triển
– sơ lược thân thế và sự nghiệp
Đoàn Triển 段展 tự Doãn Thành,
hiệu Mai Viên, chào đời ngày 19 tháng tư Giáp Dần (1854) tại làng Hữu Thanh
Oai.
Năm Ất Hợi 1875, Đoàn Triển làm ấm
sinh tỉnh Hà Đông. Đỗ cử nhân Ân khoa Bính Tuất 1866, niên hiệu Đồng Khánh thứ
nhất. Năm Kỷ Sửu 1889, được bổ Tư vụ rồi Chủ sự, Viên ngoại Nha Kinh lược Bắc
Kỳ. Sau đó, Đoàn Triển lần lượt đảm các chức Tri phủ Bình Giang, Kinh Môn, Nam
Sách, Ninh Giang; Án sát Hà Nội; Tuần phủ Ninh Bình, Hà Nội, Hà Nam; Tuần phủ
sung Tuyên phủ sứ Bắc Giang.
Là học quan tích cực tham gia vào
sự nghiệp giáo dục, Đoàn Triển xây dựng Giang Kiều Học Xá năm Bính Ngọ 1906.
Cùng năm đó, ông gửi Thống sứ Bắc Kỳ tờ trình mang nội dung: đề nghị lập Toà Hội
đồng Học vụ nhằm biên soạn 18 quyển sách giáo khoa từ vỡ lòng đến trung học. Tờ
trình ấy được Emmanuel Poisson khen ngợi qua công trình nghiên cứu Mandarins
et subalternes au nord du Vietnam – une bureaucratie à l'preuve (1820 – 1918) /
Quan và lại ở miền Bắc Việt Nam – một bộ máy hành chính trước thử thách (1820 –
1918) (Bản dịch của Đào Hùng & Nguyễn Văn Sự – NXB Đà Nẵng,
2006).
Năm Giáp Dần 1914, Đoàn Triển về
hưu, hàm Thái tử Thiếu bảo, Hiệp tá Đại học sĩ. Ngày 12 tháng 7 Kỷ Mùi
(15-8-1919), Đoàn Triển mệnh chung, được an táng tại sinh phần do chính ông
thiết kế và chỉ đạo xây dựng ở làng Hữu Thanh Oai từ niên điểm hưu
trí.
Trước tác của Đoàn Triển hiện còn:
An Nam phong tục sách / Tiểu học bản quốc phong tục sách (Bản dịch của
Nguyễn Tô Lan – NXB Hà Nội, 2008), Mai Viên thi tập, Mai Viên chủ nhân quy
điền lục, Đoàn tuần phủ công độc, Nhi tôn tất độc. Ngoài ra, Đoàn Triển còn
có thơ đề ở quán Trấn Vũ, văn bia nhà học xã Hữu Hoà và chùa Quang Ân, câu đối ở
đàn tổ họ Đoàn và sinh phần của bản thân.
Xác định
tác giả cùng nguyên tác đôi câu đối
Ngày 4-5-2008, giáo sư – nhà giáo
nhân dân Nguyễn Đình Chú nói với tôi:
– Những năm 1955 – 1956, mình là
sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội, cùng lớp với Đoàn Mai Thi. Thi là con của Đoàn
Ban, cháu nội của Đoàn Duy Bình, chắt của Đoàn Triển. Mình thân thiết với gia
đình đó lắm, nên biết đôi câu đối đang đề cập của cụ Đoàn Triển, chứ mình chưa
tận mắt trông thấy trên lăng mộ. Tiếc rằng Thi đã lìa trần. Hôm nay, chúng ta
ghé thăm Đoàn Thịnh, em ruột của Đoàn Mai Thi, nhé.
Nhà giáo Đoàn Thịnh, cựu chuyên
viên sử học của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, nay đã nghỉ hưu tại nhà riêng ở
phố Lò Đúc, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Sau khi được gia chủ cho xem một số tư
liệu liên quan Đoàn Triển, tôi cùng thầy Chú được ông Thịnh đưa đến làng Hữu
Thanh Oai để viếng mộ Mai Viên tướng công.
Làng Hữu Thanh Oai, còn gọi Hữu
Châu, tên Nôm là Tó Hữu, nằm bên bờ phải dòng sông Nhuệ. Đối ngạn là làng Tả
Thanh Oai tức Tó Tả. Xưa, Hữu Thanh Oai là một xã thuộc tổng Thanh Oai, huyện
Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam Thượng. Năm 1948, nhập với các làng Hữu
Lê, Hữu Chung, Hữu Từ, thành xã Hữu Hoà, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông. Năm
1961, là thôn Hữu Thanh Oai, xã Hữu Hoà, huyện Thanh Trì, TP. Hà
Nội.
Ngang chùa Linh Xá, rẽ vào xóm nhỏ
một quãng thì gặp mộ Đoàn Triển được tạo tác khá công phu giữa khoảnh đất rộng
1.088m2. Để thắp nén nhang trước huyệt, chúng tôi bước qua cổng bằng
đá xanh. Hai cột đá làm trụ cổng được khắc lõm 3 cặp câu đối, gồm 2 cặp Hán và 1
cặp Nôm.
Cặp câu đối chữ Hán thứ
nhất:
問心自可無疑塚
定
論何須俟蓋棺
Phiên âm:
Vấn tâm tự khả vô nghi
trủng, Định
luận hà tu sĩ cái quan.
Tạm dịch:
Hỏi lòng không thiết
vun mồ giả, Xét việc khỏi chờ đậy ván thiên.
Tôi sực liên tưởng thất thập nhị nghi
trủng 七十二疑冢 tức 72 mả giả tại huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam, mà Tào
Tháo (155 – 220) tạo lập trước khi chết bởi sợ sau này có kẻ đào quật, khiến
Nguyễn Du (1765 – 1820) bật lên những vần trong Bắc hành tạp lục đầy
cương trực:
枉用一人無限智
空留萬古許多疑 臭名滿槨藏何用 賊骨千年罵不知
Phiên âm:
Uổng dụng nhất nhân vô
hạn trí, Không lưu vạn cổ hứa đa nghi. Xú danh mãn quách tàng hà
dụng? Tặc
cốt thiên niên mạ bất tri.
Tạm chuyển ngữ:
Uổng phí một người mưu
sâu rộng, Lưu hoài ngàn kiếp mối đa nghi. Đầy hòm tiếng xấu, chôn gì
nổi? Xương
giặc đâu nghe giọng bấc chì.
Cặp câu đối chữ Hán thứ nhì:
生則同室 死則同穴
山不在高水不在深
Phiên âm:
Sinh tắc đồng thất, tử
tắc đồng huyệt, Sơn bất tại cao, thuỷ bất tại thâm.
Tạm dịch:
Sống cùng một liếp
nhà, chết cùng một huyệt mộ, Núi chẳng cốt đỉnh cao, nước chẳng cốt vực
sâu.
Vế
sau gợi nhớ đôi dòng mở đầu 陋室銘
/ Lậu thất minh / Bài minh về căn nhà quê
mùa của Lưu Vũ Tích (772 – 842):
山不在高有仙則名
水不在深有龍則靈
Phiên âm:
Sơn bất tại cao, hữu
tiên tắc danh, Thuỷ bất tại thâm, hữu long tắc
linh.
Nghĩa :
Núi dẫu chẳng cao, có
tiên nên danh tiếng, Nước dẫu chẳng sâu, có rồng nên linh
hiển.
Cặp câu đối chữ Nôm rất đáng quan tâm:
Nào ai chín suối
xương không nát, Có nhẽ trăm năm miệng hãy
còn.
Giáo sư Nguyễn Đình Chú gật gù:
– Bây giờ, mình mới biết nguyên
tác. Đối với xương, rõ ràng miệng chỉnh hơn, hay hơn tiếng.
Thành ngữ nghìn năm bia miệng còn khiến cho mọi người hiểu thấm thía hai
câu đối của người quá cố.
Nhà giáo Đoàn Thịnh nhấc cặp kính
trắng:
– Nhà báo Phanxipăng thấy thế
nào?
Tôi cười:
– Văn bản gốc bằng chất liệu bền
vững thế này thì… hết ý! Vậy mà suốt bao lâu, thiên hạ vẫn cứ bị nhầm lẫn. Lạ
nhỉ?
Đã
đăng: Thế
Giới Mới 862 (30-11-2009) Kiến Thức Ngày Nay 751
(20-6-2011)
|