Con trai của Trọng Thủy — vị vua có tên Triệu Hồ — 4

Tư liệu tham khảo quan trọng

Bài viết của bác Vũ Thế Khôi có nói về Triệu ĐàTriệu Muội — đã công bố trên tạp chí Xưa và Nay năm 2006

Dưới đây là trích đoạn trong một bài viết của bác Vũ Thế Khôi. Bác Khôi cũng đã có dịp ghé thăm bảo tàng mộ Triệu Hồ ở Quảng Châu — vào năm 2003, tức là bác đã đến thăm mộ này trước anh Du và trước tôi. Trong một dịp về Hà Nội nghỉ phép ngắn hạn cuối năm 2005, tôi đã đọc bài này ở thư viện, may mắn, bây giờ, qua bạn bè chỉ dẫn, tôi tìm được bản công bố trên internet. Tiện quá ! Vớt vào đây, để cùng đọc, cho rộng bề tham khảo.

Trong bài này, bác Khôi, cũng đọc là Triệu Muội, mà không đọc là Triệu Mạt.

Đặc biệt, bác Khôi đánh giá rất cao quan điểm trọng thị nhà Triệu của bác Tạ Chí Đại Trường.

Bác Khôi là một trong những chuyên gia số một về tiếng Nga ở Hà Nội. Một người bạn ở Sư Phạm I Hà Nội của tôi là đệ tử ruột của ông về món Rút-xì-ki-day-dứt này — ấy là chuyện của nhiều năm trước, nay cậu bạn ấy đã bỏ tiếng Nga rồi !.

Bác là cháu của nhà thơ Vũ Tông Phan – nổi danh cùng thời với Nguyễn Văn Siêu – có lẽ vì vậy, mà thường ở các bài viết của bác luôn có một câu hay một đoạn liên quan đến Vũ Tông Phan.

Đầu thập niên 1990, khi vừa 20 tuổi, tôi đã từng lọc cọc xe đạp đến gõ của nhà bác Khôi, ngỏ lời được xem nguyên bản gia phả chữ Hán của họ Vũ và một tấm bia của cụ Vũ Tông Phan ở sau nhà. Nhớ nhất chi tiết: bác cầm một chiếc đèn hoa kì — không phải đèn pin — ân cần chỉ dẫn tôi ra sau nhà, mở tấm mành tre, và cùng đọc những hàng chữ Hán trên tấm bia. Xin ghi lại đây, để tỏ lòng tri ân bác Khôi — một người thầy của tôi !

Trích đoạn bài của bác Khôi — nguồn để ở cuối bài

Triệu Đà vốn người Hán ở đất Chân Định, nay thuộc tỉnh Hà Bắc-Trung Quốc, cho Trọng Thuỷ cầu hôn Mỵ Châu đương nhiên nhằm mục đích thôn tính Âu Lạc. Nhưng sau khi đã tiêu diệt triều đình An Dương Vương, theo Sử ký Tư Mã Thiên, Triệu Đà tiếp tục chủ trương đó: dùng Lữ Gia mà chính Sử ký Tư Mã Thiên gọi là "Việt nhân" (đúng hơn phải nói là người Hán đã Việt hoá do sống giữa cộng đồng người Việt, cũng như Lý (Bôn) Nam Đế – V.T.K.) và ghi nhận Gia "làm Thừa tướng 3 đời vua… Con giai lấy con gái vua, con gái lấy con giai, anh em tôn thất của vua…; ở trong nước rất được tôn trọng, người Việt tin ông, nhiều người làm tai mắt cho ông, ông được lòng dân hơn vương". Chẳng những thế, bản thân Đà đã chủ động thích ứng với phong tục, tập quán của người Việt: trong thư dâng Hán Văn Đế (179-156 trước CN) ông viết: "Lão phu ở đất Việt đã 49 năm, hiện đương bồng cháu". Thâm ý của câu đó, họ Triệu khi tiếp sứ thần nhà Hán là Lục Giả, đã giải thích khá cụ thể bằng hành động "xoã tóc, ngồi chò hõ (tức ngổi xổm, chồm hỗm theo phong tục người Việt, chứ không búi tóc, ngồi quỳ gối theo nghi lễ Trung Hoa – V.T.K.) mà tiếp" và cũng khá thẳng thừng đáp lại lời Giả trách Đà "phản thiên tính" (tức quên phong tục mẹ đẻ là người Hán!): "Tôi ở trong xứ mọi rợ lâu ngày, quên hết lễ nghĩa rồi" (tức không theo lễ nghi của người Hán nữa!). Có thể nói rằng họ Triệu và họ Lữ (Lã) là những đại biểu sớm nhất của các dòng họ cổ đại hoà trộn hai huyết thống Việt và Hoa được sử sách ghi lại, tức cũng xác nhận vào thời điểm đó mới bắt đầu hình thành nhân tố thuận lợi thúc đẩy sự truyền bá chữ Hán và giao lưu văn hoá Trung-Việt.

Việc Triệu Đà chủ trương dung hợp hai nền văn hoá Hoa và Việt, gần đây được chính một số học giả Trung Quốc khẳng định. Sau khi tham dự Hội thảo Thâm Quyến, trên đường về qua Quảng Châu, nhân ghé thăm khu mộ của cháu Triệu Đà là Văn Vương Triệu Muội, chúng tôi mua được sách Lĩnh Nam chi quang, miêu tả việc khai quật khu mộ đá này năm 1983. Các tác giả sách viết: Triệu Đà … "thúc đẩy chính sách dân tộc "hoà tập Bách Việt", xúc tiến quá trình dung hợp dân tộc Hán – Việt và phát triển kinh tế – văn hoá" .

Khách quan mà nói, quan điểm về sự dung hợp hai nền văn hoá Việt và Hoa dưới triều đại Triệu Đà trong toàn cõi Nam Việt quốc đã từng được một số nhà sử học Sài Gòn nêu lên khá sớm, nhưng đúng như nhà sử học Đào Hùng, Phó tổng biên tập báo Xưa & Nay, nhận định trong Lời giới thiệu công trình cực kỳ lý thú của nghiên cứu sinh tiến sĩ năm thứ nhất Đại học Văn khoa Sài Gòn Tạ Chí Đại Trường, xuất bản năm 1989 tại Hoa Kỳ, đến đầu năm 2006 này mới được in lại ở Việt Nam, nhan đề Thần, người và đất Việt: "Trải qua một thời gian dài giới nghiên cứu chúng ta thường bị những động cơ chính trị chi phối nên việc nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiên kiến". Có thể nói một trong những thiên kiến như vậy là quan điểm chính thống trong giới sử học miền Bắc coi nhà Triệu là kẻ xâm lược, mà đã là kẻ xâm lược thì phải xấu, không thể có đóng góp gì đáng bàn nữa! Trong công trình nói trên, với một phương pháp nghiên cứu khách quan, không bị lập trường chính trị o ép, nhà sử học Tạ Chí Đại Trường xuất phát từ luận điểm về sự liên tục văn hoá và căn cứ thực tế lịch sử về giao lưu văn hoá của cộng đồng người Việt với Hán, Chămpa và các tộc người khác, đã phát biểu những ý kiến xác đáng, nêu một nhận xét táo bạo, nhưng theo chúng tôi, không phải không có lý, rằng: "Ranh giới Giao [tức Giao Chỉ] – Quảng [tức Quảng Đông, Quảng Tây] còn nhập nhoà trong trận chiến Lý-Tống (1075-1077) khi Lý đem quân qua châu Khâm, châu Liêm có người giúp đỡ, nội ứng…", tức theo ông, trải qua hơn nghìn năm vẫn tồn tại những truyền thống bắt nguồn từ sự dung hợp văn hoá Hoa và Việt từ thời Triệu Đà khiến ít ra một bộ phận dân chúng vùng Lưỡng Quảng không hề mặc cảm đạo quân viễn chinh của Đại Việt là những kẻ dị chủng xâm lược.

Bốn chục năm trước đây, khoảng năm 1962/63, chúng tôi từng được nghe một vị sư già ở chùa Thầy nói xương cốt dưới hang chùa là của binh lính Lữ Gia không chịu ra đầu hàng, bị quân Hán vây đến chết đói ở dưới đó. Ngay ở Hà Nội cho đến năm 1979 vẫn còn phố Lữ Gia (nay là phố Lê Ngọc Hân). Tại một số địa phương trên đất Việt Nam ngày nay dân chúng vẫn thờ Triệu Đà và Lữ Gia. Chẳng hạn, ở làng Đồng Xâm xã Hồng Thái huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình vẫn còn di tích một đền lớn uy nghi, được xếp hạng như di tích thờ vị Tổ nghề chạm bạc truyền thống. Thực ra, Tổ nghề Nguyễn Kim Lâu chỉ được thờ trong một cái am nhỏ ở địa điểm khác. Đây cũng lại là một bằng chứng về cái sự "bị động cơ chính trị chi phối", khiến người ta phải làm sai lệch sự thật về ngôi đền này, bất chấp thư tịch lịch sử và địa chí. Danh sĩ cuối đời Lê là Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ (1726-1780) viết rành rành trong công trình nổi tiếng Việt sử tiêu án: "… làng Đường Xâm quận Giao Chỉ (nay là Đường Xâm huyện Chân Định) có miếu thờ Triệu Đà…" Huyện Chân Định sang triều Nguyễn thuộc phủ Kiến Xương tỉnh Nam Định, đến năm 1894, phủ Kiến Xương cắt về tỉnh Thái Bình mới lập, sau bỏ phủ, đổi gọi là huyện Kiến Xương. Năm 1924 nhà địa dư học Ngô Vi Liễn còn ghi ở chương "Tỉnh Thái Bình" trong sách Địa dư các tỉnh Bắc kỳ : "Đền Triệu Vũ Đế ở làng Thượng Gia, phủ Kiến Xương, hội về ngày mồng 1 tháng tư"). Cũng sách của Ngô Vi Liễn cho biết: làng Thượng Gia thuộc tổng Đồng Xâm (sách đời Nguyễn Gia Long còn gọi là tổng Đường Xâm).

http://www.humanrightsorganization.org/home/index.php?option=com_content&task…