Để tránh rắc rối, tạm bỏ tên bài và tên tác giả. Cũng không đưa đường link vào đây. Bác nào có quan tâm thì tự tìm hiểu.
"Hòa Liễu là một làng nhỏ, xinh xắn ở xã Thuận Thiên, phía tây huyện Kiến Thụy, thuộc phía nam Thành phố cảng Hải Phòng. Hòa Liễu ở thế đất phong thủy đẹp đẽ, mà câu đối chùa Thiên Phúc trong làng đã tự hào diễn tả:
Tú khí chung anh, Trà Sơn triều củng,
Danh khu hợp dẫn, Mai Thủy vinh hồi.
(Khí tinh anh chung đúc từ núi Chè chầu tới,
Vùng danh thắng họp lại, nước Mai Dương trong sáng dồn về.)
Xưa kia, Hòa Liễu là một vùng hiểm trở với địa thế có thể góp phần bảo vệ đầu nguồn cánh đầm cửa phủ Dương Kinh, kinh đô thứ 2 của Vương triều Mạc với nhiều sự tích lịch sử. Ngày nay làng này đã khai phá, không còn tràn ngập lau sậy hiểm trở như xưa, nhưng vẫn đầy ắp những huyền thoại, những tư liệu Hán Nôm gắn với nhiều phong tục đẹp có từ lâu đời còn lưu tới nay. Hòa Liễu quả là xứng đáng với bức hoành phi lớn có nét chữ vàng rực: "Mỹ tục khả phong" do triều Nguyễn ban tặng còn giữ ở đền làng ! Trong những "mỹ tục" đó, đáng chú ý nhất là tục "Minh thệ", một trong những tục truyền thống của nước ta đã biến mất ở nhiều nơi, nhưng vẫn tiếp tục tồn tại đầy sức sống ở Hòa Liễu, với nét riêng tới tận thời nay.
Văn bản chữ Hán mà người Hòa Liễu truyền tay chép lại đều viết là "Minh thệ", nhưng nhân dân ở đây từ lâu vẫn gọi một cách mộc mạc, thân thiết là "Miêng thệ". Hàng năm, cứ vào ngày 24 tháng Chạp âm lịch, lễ "Miêng thệ" được tổ chức trọng thể tại miếu thờ Thành hoàng bản thổ với sự chứng kiến của đại diện chính quyền địa phương (Xưa kia, mỗi khi hành lễ, thường mời cả đại diện của quan phủ, quan huyện về dự). Trước khi làm lễ khai mạc buổi "hội thề", dân làng tế thánh tại miếu chính. Các nghi lễ truyền thống được tiến hành gồm có vị Chủ tế và các vị Bồi tế đọc chúc văn kể lý lịch, công đức của đức thánh vương, rồi làm lễ dâng hương, dâng rượu, dâng nước trong tiếng nhạc bát âm réo rắt. Sau đấy, các vị già làng, đại diện chính quyền, quan khách và dân làng trang phục tề chỉnh, tập trung quanh sân miếu theo thứ bậc. Vị Chủ tế biểu diễn động tác "chỉ trời vạch đất", mô phỏng theo phép biến hóa trong Kinh Dịch, rồi vẽ vòng tròn lớn khoảng 2m giữa sân miếu gọi là "Đài thề". Trên "Đài thề" đặt một bàn thờ nhỏ hướng về cửa miếu trang nghiêm. Ba vị đại diện cho bô lão, chính quyền và dân làng đã được tuyển chọn bước lên "Đài thề" làm lễ thắp nhang khấn vái trời đất và bách thần. Vị đại diện cho cả làng (xưa kia là đại diện cho Hội Tư văn) dõng dạc đọc lời "Miêng thệ". Các cụ ở đây cho chúng tôi biết: lời "Miêng thệ" là nói gọn mấy tiếng "Minh thệ tấu văn", xưa kia đọc cả lời phiên âm tiếng Hán lẫn lời dịch nghĩa tiếng Việt. Ngày nay, để giản tiện, có năm chỉ đọc lời dịch nghĩa tiếng Việt. Đại ý toát lên: "Tất cả chức sắc bô lão và nhân dân, từ kẻ sĩ đến nhà nông trong hương thôn, ai dùng của công, xây dựng việc công, xin thần linh ủng hộ. Ngược lại, người nào lấy của công về làm của tư, cầu xin thần linh trừng phạt. Làm tôi bất trung, làm con bất hiếu, xin thần linh tru diệt", rồi hô to: "Y như miêng thệ". Vị chủ lễ cầm dao bầu cắm mạnh xuống "Đài thề" để biểu thị sự quyết tâm. Lễ cắt tiết gà tiếp theo để uống máu ăn thề diễn ra rất cầu kỳ: máu gà hòa trong bình rượu lớn, mỗi người chuyền tay nhau uống một ngụm, khẳng định dân làng quyết tâm đoàn kết giữ vững lời thề.
Hội thề này thể hiện niềm tự hào của người Hòa Liễu, tỏ rõ "cốt cách Hòa Liễu" có từ ngàn đời: Người dân Hoà Liễu quyết mang khí phách kẻ sĩ, giữ tiết tháo, không vì đói rét mà xâm phạm tới của công, trọn đời phải lấy "chí công" làm trọng. Vậy đó phải là một sinh hoạt văn hóa tích cực, giúp cho mọi người thêm yêu quê hương đất nước, tình làng nghĩa xóm thêm gắn bó, kết thúc một năm cũ tốt lành, chuẩn bị bước vào một năm mới đầy hy vọng, tin tưởng. Đó cũng là một trong những yếu tố quan trọng góp phần giải thích vì sao thôn Hòa Liễu, xã Thuận Thiên đứng vững trước mọi thử thách cam go của lịch sử, đặc biệt là thời đổi mới, chống tham nhũng đầy gian nan ngày nay.
Hòa Liễu ở Thành phố cảng, gần biển, gắn với khu du lịch Đồ Sơn, dễ tiếp xúc với khách nước ngoài, sôi động thương trường, thì hẳn rằng sinh hoạt văn hóa với những đạo lý cao khiết cổ truyền ấy càng có những ý nghĩa riêng của nó, và việc dịch, phổ biến bản "Miêng thệ" này, do vậy, cũng là điều hay.
Vì văn bản "Minh thệ" truyền bá quá lâu đời, sao đi chép lại nhiều, nên đến nay, chúng tôi không thể lần ra văn bản gốc, cũng khó biết văn bản này có cụ thể vào đời nào. Ông Phạm Đăng Khoa, nguyên Giám đốc trường Đảng Kiến Thụy, hiện làm Phó ban bảo vệ di tích lịch sử đền chùa Hòa Liễu đã cung cấp cho chúng tôi một văn bản chữ Hán do ông chép lại. Sau khi quan sát lễ "Miêng thệ", nghe lời văn trong đó và đọc kỹ bản "Minh thệ tấu văn" bằng chữ Hán, chúng tôi đã dịch nghĩa và xin giới thiệu toàn văn để bạn đọc tham khảo. Nhân đây, tôi xin trân trọng bày tỏ lời cảm tạ tới ông Phạm Đăng Khoa.
MINH THỆ TẤU VĂN
Dịch nghĩa:
Bài minh thệ tâu vào ngày 24 tháng 12, năm…
Tâu rằng:
Thôn [Hòa Liễu], xã [Thuận Thiên], huyện [Kiến Thụy], tỉnh [Hải Phòng], nước Việt Nam, năm thứ […].
Hôm nay, các bậc kỳ lão, chức dịch cùng già trẻ trong toàn thôn hội họp tại điện vũ. Theo tục lệ cũ, cùng nhau chích huyết ăn thề, kính cẩn dâng kim ngân, mũ áo, cỗ bàn phẩm vật, dám mong được kính cáo lên thần linh.
Kính mời các vị:
Thiên địa thần kỳ, đương niên Hành khiển, thần Hành binh, Tào phán quan, đương cảnh Thành hoàng, bản thổ Thiên quan, hai vị Hoàng vương, muôn vạn thần linh, thần thổ địa, các xứ đồng ruộng cùng về đây giám sát việc hội thề, phải trái công bình, đúng như lời minh thệ của dân xã chúng tôi, gồm các điều liệt kê rõ ràng minh bạch sau đây:
Việc thứ nhất: dân xã sở tại đã bầu ra, thì người làm Lý trưởng (nay là Chủ tịch xã), phàm các công vụ làm trong năm, nếu lấy công làm việc công thì mong được chư thần ủng hộ, nếu như có lòng tham, lấy công làm tư, thì mong chư thần đánh chết, y như văn thề đã ghi.
Một việc nữa: dân xã sở tại đã bầu ra, thì người làm Phó lý (nay là Phó chủ tịch xã), phàm các công vụ làm trong năm, nếu lấy công làm việc công thì mong được chư thần ủng hộ, nếu như có lòng tham, lấy công làm tư, thì mong chư thần đánh chết, y như văn thề đã ghi.
Trên từ các bậc già lão, dưới đến những người mới tuổi thành niên thuộc bản thôn, ở bên trong từ nơi vườn cây hoa quả, ở bên ngoài đến chốn đồng ruộng lúa màu, nếu có ai có công tâm chính trực, thì mong được chư thần ủng hộ, nếu người nào có lòng tham, làm điều gian tà, thì mong chư thần đánh chết y như văn thề đã ghi.
Các thần trong trời đất đều công bình chính trực, thông minh sáng suốt. Trời đất vốn vô tư, các điều thiện, điều ác đều qui định rõ ràng. Sấm sét của trời không thể ngừa được, nên kẻ gian ngoan không thể trốn được hình luật. Kẻ đứng đầu đinh tráng vào tháng Chạp cần cử hành lễ minh thệ. Người ở trong đám hào lý, hương thôn hoặc là kẻ sĩ, hoặc là nông dân, đứng trong địa vị của mình, khi làm nghề thủ công cũng như khi buôn bán, thề rằng phải lấy chân tình, dựa vào sự ngay thẳng mà phụng sự việc công. Như vậy thì phúc ấm sẽ rủ đến đời con cháu, mọi thứ sẽ tốt lành rực rỡ, dân chúng sẽ ấm no. Kẻ đã ra oai, lại cậy thế hách dịch (dù ghê gớm như búa rìu, sấm sét) lấy của công, nhân danh công để làm tư, thì cúi xin chư thần đánh chết.Cần giữ điều trung, làm việc chính, ngầm dựa vào thánh đức, cứu giúp cho sinh linh, chớ nên tin vào kẻ gian, chớ nên tha việc tà vạy. Khi thực hành, phải công bằng như quả cân này, trước thần minh, phải chính trực như mặt trời này. Đội ơn thánh đức đã trao cho quyền hành, phải ngăn chặn các tệ xấu của bọn gian ngoan làm đồi phong bại tục.
Nay kính cẩn tâu lên."